A. GIỚI THIỆU CHUNG

Chùa Bái Đính nằm trong Quần thể Danh thắng Tràng An thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Nằm cách TP Ninh Bình 18 km và cách Hà Nội 100 km, chùa Bái Đính được coi là ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á với nhiều kỷ lục Châu Á và Việt Nam như: tượng Phật giát vàng lớn nhất Châu Á, hành lang La Hán dài nhất Châu Á, Tháp Xá Lợi Phật cao nhất Châu Á và tượng Phật Di Lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á…

Chùa Bái Đính (chùa cổ) có từ năm 1136 do Quốc sư Nguyễn Minh Không sáng lập, với các điểm như: Giếng Ngọc, Động thờ Tổ sư, Động thờ Phật, Động thờ Mẫu, Ban thờ Thánh Cao Sơn…

Từ năm 2003, Doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường đã phát tâm công đức trùng tu và mở rộng chùa với tổng diện tích hơn 1000 ha. Các công trình kiến trúc tiêu biểu của chùa (chùa mới) gồm: Cổng Tam Quan, Gác Chuông, Điện Quán Âm, Điện Giáo Chủ, Điện Tam Thế, Tháp Báo Thiên, Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Tháp Tứ Ân, Bát Chính đạo, Hành lang La Hán… Ngoài ra, chùa còn nhiều công trình vẫn đang tiếp tục xây dựng như: Công viên Văn hoá Phật giáo, Khu hồ Đàm Thị, Công viên cây xanh…

Ngày 23 tháng 6 năm 2014, Quần thể Danh thắng Tràng An (trong đó có chùa Bái Đính) đã được Ủy ban Di sản Thế giới công nhận là Di sản Thế giới hỗn hợp đầu tiên tại Việt Nam về văn hóa và thiên nhiên.

B. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

Cách đây hơn 1000 năm, tại Ninh Bình có ba triều đại phong kiến là: Đinh, Tiền Lê và Lý, cả ba đều theo đạo Phật làm Quốc giáo. Với lý do này, nhiều ngôi chùa đã được xây dựng ở Ninh Bình, trong đó có chùa Bái Đính.

Năm 1136, Quốc sư Nguyễn Minh Không tìm thấy cây thuốc để chữa bệnh “hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông, Ngài đã khám phá ra hang động trên núi Đính và chọn nơi này để tôn thờ tượng Phật và tu hành.

Năm 968, Đinh Tiên Hoàng đánh bại 12 sứ quân và trở thành hoàng đế. Ông lên núi Đính lập đàn tế trời để cầu mưa thuận gió hòa, an lành cho quốc gia và được dân chúng và đầu sĩ tôn kính. Vua Quang Trung cũng từng đến đây trước khi ra Thăng Long đánh đuổi quân xâm lược.

Ngày 6 tháng 1 năm 1944, Trần Tử Bình đã chọn núi Bái Đính làm căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu, kêu gọi toàn dân tham gia kháng chiến, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng 8 năm 1945.

Ngày 6 tháng 1 hàng năm là ngày lễ hội chùa.

Năm 1997, chùa Bái Đính được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cách mạng cấp Quốc gia.

C. CHÙA BÁI ĐÍNH

I. Khu chùa Cổ:

1. Giếng ngọc:

Giếng ngọc có diện tích 6000m2, đường kính 30m, độ sâu 10m, mực nước 6-7m và bao quanh có 04 lầu bát giác. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng xác nhận “Ngôi chùa có giếng ngọc lớn nhất Việt Nam”.

2. Động thờ Tổ sư:

Động thờ Tổ sư thờ 02 pho tượng là: Đạt Ma Tổ sư và một vị Tổ sư Việt Nam (hiện chưa rõ danh tính).

Đạt Ma Tổ sư là vị tổ thứ 28 của dòng thiền Phật giáo Ấn Độ và sư tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Ngài học Phật giáo Đại thừa từ nhỏ và sang Trung Hoa vào năm 520 để truyền đạo. Trong 9 năm tu hành tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn (Hà Nam – Trung Quốc), Ngài đã sáng lập môn võ Thiếu Lâm.

Vị Tổ sư còn lại là một vị Tổ sư người Việt Nam, hiện chưa rõ danh tính. Ban đầu, 2 vị Tổ sư này được thờ tại chùa Đà Ha (xã Gia Sinh – huyện Gia Viễn) trước khi được đem về thờ tại chùa Bái Đính.

3. Động thờ Phật:

Động thờ Phật có chiều dài 25m, cao 2m. Khi vua Lê Thánh Tông thăm chùa Bái Đính đã tặng bốn chữ “Minh Đỉnh Danh Lam” trên cửa động để ca ngợi vẻ đẹp và sự linh thiêng của khu núi rừng này. Trước cửa động thờ, có 2 pho tượng Hộ Pháp bằng đồng là ngài Khuyến Thiện và ngài Trừng Ác.

Trung tâm của động có Tam Bảo: Phật Bảo là 10 phương ba đời các Đức Phật (Phật Thích Ca là giáo chủ); Pháp Bảo là các kinh điển và giáo lý của Phật; Tăng Bảo là những người tu hành tuân theo luật giới của Phật và truyền đạo chính pháp.

Đức Thánh Hiền hay còn gọi là A Nan Tôn Giả, là đệ tử thân cận của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Anh là người có trí nhớ vượt trội nên sau khi Đức Phật nhập niết bàn, Anh đã ghi chép lại những lời dạy của Đức Phật thành kinh để truyền đạt cho hậu thế.

Đức Ông là Trưởng giả Tu Đạt hay còn gọi là Cấp Cô Độc. Ông là một vị Trưởng giả ở Ấn Độ cổ, sinh cùng thời với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và là đệ tử tu tại gia và là hộ pháp đắc lực của Đức Phật. Sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hoàn thiện, Trưởng giả Tu Đạt và Thái tử Kỳ Đà đã cùng xây dựng một Tịnh Xá để truyền pháp và độ sinh. Sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn, tổ chức này trở thành ngôi chùa đầu tiên.

4. Động thờ Mẫu:

Bên trái cửa động có quả chuông nặng 300kg với 8 chữ “Mẫu – Nghi – Thiên – Hạ / Xuân – Hạ – Thu – Đông” được khắc.

Chùa Bái Đính như các ngôi chùa khác ở Việt Nam thờ Tam tòa Thánh Mẫu, hy vọng an lành, tài lộc và may mắn. Trong đó, Mẫu Thoải là Mẫu đệ tam cai quản vùng sông nước, với áo màu trắng; Mẫu Thượng Ngàn là Mẫu đệ nhị cai quản vùng núi rừng, với áo màu xanh; Mẫu Liễu Hạnh là Mẫu đệ nhất, với áo màu đỏ.

Hình ảnh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện vào thế kỷ XVI. Vào thế kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn vinh danh Mẫu Liễu Hạnh là Mẫu Nghi Thiên Hạ (cảm giác tình mẫu mực của mọi người), luôn che chở, phú hộ và trì trì cho mọi người.

5. Thánh Cao Sơn:

Theo truyền thuyết, Thánh Cao Sơn là một vị tướng của Vua Hùng (Tản Viên là anh cả, Cao Sơn là anh thứ hai, Quý Minh Đại Vương là anh thứ ba). Theo truyền thuyết, vua Hùng đã bố trí cho những cánh quân giữ 99 ngọn núi tại núi Bái Đính và tượng thần Thánh Cao Sơn.

II. Khu chùa Mới:

Từ năm 2003, Doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường đã phát tâm công đức trùng tu và mở rộng chùa với tổng diện tích hơn 1000 ha. Hiện nay, chùa đã có nhiều điểm tham quan mới như: Tam Quan Ngoại và Nội, Gác Chuông, Điện Quán Âm, Điện Giáo Chủ, Điện Tam Thế, Tượng Di Lặc và Tháp Báo Thiên, Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Bát Chính Đạo, Tháp Tứ Ân…

1. Cổng Tam quan:

Cổng Tam Quan được xây dựng hoàn toàn bằng 550 m3 gỗ, với 04 cây cột trụ cao 13,85m, đường kính 0,87m và nặng gần 10 tấn/cột.

Hai bên cổng Tam Quan là 2 pho tượng Hộ Pháp: Ngài Khuyến Thiện và ngài Trừng Ác, được tạo ra bằng đồng nguyên khối, cao 5,5m, nặng 30 tấn.

Ngài Khuyến Thiện khuyến khích con người làm việc tốt, trong khi Ngài Trừng Ác răn đe con người không được làm điều ác.

2. Hành lang La Hán:

La Hán là đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là những người đã tu hành đạt đến quả vị A La Hán nhưng chưa trở thành Phật. Hành lang La Hán có 02 dãy với tổng chiều dài 1700m và 500 pho tượng La Hán tạo ra từ đá xanh, do các nghệ nhân tại làng đá Ninh Vân – Hoa Lư tạc. Mỗi pho tượng cao trung bình 2,5m, nặng từ 2 – 4 tấn.

Hành lang La Hán nắm giữ kỷ lục “Hành lang La Hán dài nhất Châu Á”.

Hành lang La Hán cũng hiện tượng tượng hai vị chân sư Việt Nam:

– Hòa thượng Thích Quảng Đức (phía bên phải hành lang) là Lâm Văn Tức, người Khánh Hòa. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ – Diệm năm 1963, Ngài đã thiêu đốt chính mình để phản đối sự đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngài đã cháy thành tro bụi, nhưng trái tim của Ngài không bị tiêu tan, vì vậy người ta tôn kính Ngài là Bồ tát Quảng Đức.

– Phật Hoàng Trần Nhân Tông (phía bên trái hành lang) sinh năm 1258, là Thái Tử Khâm con trai của vua Trần Thánh Tông. Năm 1278, Ngài lên ngôi vua và được biết đến với tên Trần Nhân Tông. Ngài là một vị vua thông minh, tài giỏi và có tình yêu từ bi rộng lớn. Sau 15 năm trị vì, Ngài nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, rồi lên núi Yên Tử tu hành và sáng lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

3. Gác chuông:

Gác chuông cao 18,25m, đường kính 17m, được xây dựng bằng bê tông sơn màu gỗ, theo kiểu gác chuông cổ hình bát giác, có 03 tầng với 24 mái đao cong vút tạo thành hình hoa sen độc đáo.

Trên Gác chuông treo một quả chuông nặng 36 tấn được đúc bằng đồng bởi các nghệ nhân tại TP Huế. Năm 2007, quả chuông này được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam chứng nhận là “Đại Hồng chung lớn nhất Việt Nam”.

Dùi chuông dài 4,5m, nặng 5 tạ và đường kính 0,32m.

Trống đồng đường kính mặt trống 5,5m và nặng 70 tấn được nghệ nhân tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đúc.

4. Điện Quán Âm:

Điện Quán Âm được xây dựng hoàn toàn bằng 900 m3 gỗ. Bên trong đền, tôn thờ tượng Phật Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, tượng này được tạo ra bằng đồng giát vàng, cao 10 mét và nặng 90 tấn do các nghệ nhân tại huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định đúc. Bên phải của Điện là tượng Đại Thế Chí Bồ Tát; bên trái của Điện là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, được chạm từ hai khối gỗ nguyên khối, mỗi tượng cao 10m và nặng 4 tấn.

Tượng Phật Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công nhận là “Pho tượng Quán Âm Bồ Tát bằng đồng giát vàng lớn nhất Việt Nam”.

5. Điện Giáo Chủ:

Điện Giáo Chủ có diện tích gần 2000m2, cao 30m và được xây dựng bằng bê tông sơn màu gỗ. Điện Giáo Chủ là nơi tôn thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni – nhà sáng lập đạo Phật.

Tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được tạo ra bằng đồng giát vàng, cao 10m và nặng 100 tấn. Tác phẩm này được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công nhận là “Pho tượng Thích Ca bằng đồng giát vàng lớn nhất Việt Nam”.

Bên phải của Điện là tượng Tôn giả A Nan bằng đồng giát vàng, cao 7,2m và nặng 30 tấn. Ngài là một trong mười đại đệ tử thông minh của Đức Phật. Nhờ khả năng nhớ siêu việt của mình, khi đức Phật còn sống, Ngài là người đàn em gần gũi và đã trực tiếp nghe lời Phật dạy. Tất cả những lời dạy truyền của Phật, Ngài đã ghi chú thành Tam tạng kinh điển để truyền lại cho thế hệ sau. Vì vậy, Ngài được tôn trọng là “Đa Văn Đệ nhất”, tức là “người nghe nhiều nhất”.

Bên trái của Điện là tượng Tôn giả Ca Diếp bằng đồng giát vàng, cao 7,2m và nặng 30 tấn. Ngài là ngày đệ tứ thông minh của Đức Phật và tu hành theo lối khát khao giải thoát. Vì vậy, Ngài được tôn xưng là “Đầu Đà Đệ Nhất”.

Ngoài ra, hai bên của Điện còn có Bát bộ Kim cương bằng đồng nguyên khối, mỗi pho tượng cao 5m, nặng 8 tấn. Tám vị Kim Cương này có nhiệm vụ bảo vệ và hộ trì Phật pháp.

Related Posts